Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Các bệnh thường gặp ở bé gái

Thống kinh, rong kinh- rong huyết... là những bệnh hay gặp ở bé gái khi bước vào tuổi dậy thì với các biểu hiện: xanh lướt, mệt mỏi, trí nhớ sút kém...

Thống kinh:

Thống kinh là triệu chứng đau quặn thắt ở vùng bụng dưới (đôi khi còn kèm thêm đau lưng nhức đầu, tiêu chảy) khi hành kinh. Có khoảng 60-70% bé gái trong 3 năm đầu hành kinh bị triệu chứng này, không có gì nguy hiểm nhưng làm cho 14-20% phải nghỉ học, gây lo lắng thiếu tự tin cho trẻ.

Nguyên nhân: Trong chu kỳ kinh nguyệt, niêm mạc tử cung tiết ra nhiều prostaglandin (từ giai đoạn tăng sinh đến giai đoạn chế tiết cuối vòng kinh) càng tăng cao hơn nữa trong ngày hành kinh, đặc biệt là trong 48 giờ đầu. Trường hợp này, gọi là thống kinh nguyên phát. Cũng có khi do thiếu vi chất (ví dụ thiếu calci) hoặc do các bệnh lý khác . Trường hợp này, gọi là thống kinh thứ phát.

Thuốc thường dùng:

-Các hormon: Hormon nữ progesteron, estrogen làm cho sự phát triển của niêm mạc tử cung kém đi, ức chế sự tổng hợp prostaglandin dẫn đến làm giảm dau. Thuận tiện nhất là dùng các thuốc tránh thai có chứa hai hormon này như marvilon, rigevilon. Do cơ chế ấy, cần uống thuốc trước khi có kinh 2-3 ngày, nếu quên thì uống ngay sau khi thấy có giọt kinh đầu tiên.

- Các thuốc hướng cơ: Cơn đau hành kinh là do co thắt. Thuốc làm giảm co thắt nên làm giảm đau. Có thể chọn dùng một trong các thuốc sau:

+Hyoscinum (buscopan): Thuốc đối kháng với hiệu ứng muscaric, chống đối lại hiện tượng cường phó giao cảm, hủy các cơn co thắt cơ trơn do cường phó giao cảm gây ra, làm giảm đau. Thuốc có thể làm khô miệng, tim đập nhanh hoặc hiếm gặp hơn là bí tiểu tiện, dị ứng da nhẹ. Không được dùng cho người bị glaucoma, rối loạn niệu đạo, hẹp môn vị. Ngoài ra, có thể dùng atropin cũng rất tốt.

+Alverin (spasmaverin, dipropylin): Acetylcholin tăng cao, gây cường phó giao cảm làm tăng co thắt cơ. Alverin hủy acetylcholin, làm hủy các cơn co thắt cơ này làm giảm đau. Không dùng cho người có huyết áp thấp.

+Draverin: có cơ chế giảm đau giống papaverin (trong thuốc phiện) vừa ức chế thần kinh trung ương, vừa làm giãn cơ, làm giảm đau.

-Các kháng viêm không steroid: thuốc ức chế sản sinh ra prostaglandin ( một yếu tố gây đau) nên làm giảm đau. Có thể chọn dùng cataflam (muối natri của diclofenac) hay mefenamic acid (ponstan). Khi dùng có thể bị buồn nôn, tiêu chảy, đau vùng thượng vị song nhẹ, tự mất đi (đối với cataflam) hoặc có thể buồn ngủ, chóng mặt giảm tiểu cầu, thiếu máu tan huyết nhưng hiếm (khi dùng mefenamic). Tuy nhiên cần lưu ý các thuốc này hay gây tai biến đường tiêu hoá (nhất là khi dùng liều cao kéo dài).

Tất cả các thuốc hướng cơ, kháng viêm không steroid đều có dạng thuốc đạn, dùng khi cần giảm đau nhanh, riêng thuốc đạn cataflam, mefenamic chỉ dược dùng cho người trên 16 tuổi.

Rong kinh, rong huyết

Rong kinh là hành kinh kéo dài hơn 1 tuần. Rong huyết là hiện tượng ra huyết ở bộ phận sinh dục (không phải do kinh nguyệt) kéo dài hơn 1 tuần. Khi kinh nguyệt kéo dài, máu kinh không đông, lượng máu ra nhiều vào giữa đợt có kinh, rong kinh kéo dài hơn 15 ngày, gọi chung là rong kinh- rong huyết.

Nguyên nhân: Khi vào tuổi dậy thì, có trẻ trong vòng 2-3 năm đầu, chu kỳ hành kinh không ổn định: estrogen tăng cao nhưng lại không có hiện tượng phóng noãn. Progesteron không được tiết ra cân đối với estrogen. Nội mạc tử cung dày lên mãi nhưng mạch máu không tăng trưởng kịp, không đủ máu nuôi dưỡng, bị hoại tử, bong ra từng mảng nhỏ, gây chảy máu dài, ngày gọi là rong kinh. Trường hợp này gọi là rong kinh do hormon. Có khoảng 70% rong kinh ở tuổi dậy thì do hormon.

Thuốc điều trị:

- Với loại rong kinh do hormon:

+Nếu nhẹ (máu ra ít, không thiếu máu): không cần điều trị.

+Nếu trung bình ( máu vẫn ra ít nhưng thiếu máu): dùng loại viên ngừa thai (vỉ có 21 viên) có chứa estrogen và progesterone. Thuốc làm cho chu kỳ kinh nguyệt ổn định. Liều thường dùng: dùng trong 3 tháng. Sau đó chuyển sang dùng progesteron ( tiêm vào ngày thứ 14 đến 28 của chu kỳ kinh).

+Nếu rong kinh rong huyết tương đối nặng (máu ra nhiều, thiếu máu): vẫn dùng viên ngừa thai trên nhưng dùng liều gấp đôi (sáng 1 viên, tối 1viên). Khi dùng liều cao như vậy thì lần hành kinh đầu tiên sau đợt dùng thuốc sẽ ra nhiều máu nên phải dùng vỉ thuốc ngừa thai thứ hai ngay sau khi thấy kinh lần đầu tiên

+Nếu rong kinh rong huyết nặng (máu ra nhiều gây mất máu cấp tính): tiêm estrogen hay uống estradiol để làm ngừng sự chảy máu cấp. Sau khi dùng 24giờ mà máu vẫn ra, cần nghĩ đến nguyên nhân khác. Sau đó tiêm progesteron hay tiêm testosteron. Tiêm progesteron ( vào ngày thứ 14-28 của chu kỳ kinh) làm cho việc giảm progesteron không quá đột ngột, tiêm testosteron( vào ngày thứ 1-14 của chu kỳ kinh) là dùng hormon nam trung hòa bớt hormon nữ. Cả hai cách đều làm cho việc chảy máy ít đi và ngừng lại.

Riêng với những bé bị cường progesteron thường bị hành kinh rất dài, ra nhiều máu. Tiêm testosteron ( trong chu kỳ đầu hành kinh) sẽ làm giảm bớt progesteron, thời gian hành kinh sẽ rút ngắn lại, không bị mất nhiều máu. Tùy theo tình trạng bệnh, thày thuốc chỉ cho tiêm một số ống progesteron hay testosteron trong các khoảng thời gian (nói trên) chứ không cần tiêm liên tục.

Thiếu máu nhược sắc

Có khoảng 20%-25% bé gái vị thành niên thường bị chứng xanh xao (thiếu máu nhược sắc), trong y học gọi là “ chứng xanh lướt thiếu nữ”.

       Ở tuổi vị thành niên, ngay khi chu kỳ hành kinh bình thường, bé gái cũng đã bị mất sắt. Khi có các bất thường về chu kỳ hành kinh thì càng bị mất sắt nhiều hơn. Vì vậy, ở tuổi vị thành niên nhu cầu sắt ở bé gái cao (2,4ml.ngày) gấp đôi bé trai (1,1mg/ngày).

Nguyên nhân:Ngay khi chu kỳ hành kinh bình thường thì bé gái đã bị mất sắt do hành kinh, nên ở tuổi vị thành niên nhu cầu sắt ở bé gái cao (2,4mg/ngày) gấp đôi bé trai (1,1mg/ngày). Trong vài năm đầu chu kỳ kinh, hầu hết bé gái có chu kỳ kinh không ổn định: ngày có kinh kéo dài hơn một tuần (gọi là rong kinh) hay kinh nguyệt kéo dài, máu kinh không đông, lượng máu ra nhiều vào giữa đợt có kinh, ngày có kinh kéo dài hơn 15 ngày (gọi chung là rong kinh-rong huyết). Rong kinh và rong kinh-rong huyết làm cho bé gái mất nhiều máu hơn nửa và nhu cầu sắt còn cao hơn nửa... Ở lứa tuổi học sinh, có 80%-100% các em bị nhiễm giun đũa, giun tóc (có một số vùng còn bị nhiễm giun móc). Giun ăn bớt các chất dinh dưỡng, gây tổn thương niêm mạc ruột, làm mất máu. Có những bé bị bệnh đường ruột làm cho việc hấp thu sắt giảm sút. Trong khi đó, trong gia đình, bé gái cũng ăn uống như bé trai, thậm chí có bé gái còn ăn uống ít hơn. Do vậy, bé gái dễ bị thiếu sắt (thiếu máu nhược sắc) hơn bé trai.

Nguyên nhân

:

Ngay khi chu kỳ hành kinh bình thường thì bé gái đã bị mất sắt do hành kinh, nên ở tuổi vị thành niên nhu cầu sắt ở bé gái cao (2,4mg/ngày) gấp đôi bé trai (1,1mg/ngày). Trong vài năm đầu chu kỳ kinh, hầu hết bé gái có chu kỳ kinh không ổn định: ngày có kinh kéo dài hơn một tuần (gọi là rong kinh) hay kinh nguyệt kéo dài, máu kinh không đông, lượng máu ra nhiều vào giữa đợt có kinh, ngày có kinh kéo dài hơn 15 ngày (gọi chung là rong kinh-rong huyết). Rong kinh và rong kinh-rong huyết làm cho bé gái mất nhiều máu hơn nửa và nhu cầu sắt còn cao hơn nửa... Ở lứa tuổi học sinh, có 80%-100% các em bị nhiễm giun đũa, giun tóc (có một số vùng còn bị nhiễm giun móc). Giun ăn bớt các chất dinh dưỡng, gây tổn thương niêm mạc ruột, làm mất máu. Có những bé bị bệnh đường ruột làm cho việc hấp thu sắt giảm sút. Trong khi đó, trong gia đình, bé gái cũng ăn uống như bé trai, thậm chí có bé gái còn ăn uống ít hơn. Do vậy, bé gái dễ bị thiếu sắt (thiếu máu nhược sắc) hơn bé trai.

Thuốc và ăn uống: Nếu trẻ bình thường chỉ cần chế độ ăn thích hợp: Sắt trong thức ăn thực vật ít hơn trong động vật, trong động vật sống dưới nước ( thủy hải sản) ít hơn trong động vật sống trên cạn (gia súc, gia cầm). Cơ thể hấp thu 10-15% sắt trong thức ăn động vật, nhưng lại chỉ hấp thu 5% sắt trong thực vật.Thức ăn giàu phospho gây kết tủa sắt, làm giảm sự hấp thu sắt, trong khi thức ăn chứa vitamin C làm tăng độ tan của hợp chất sắt, làm tăng sự hấp thụ sắt. Như vậy phải chọn thức ăn giàu sắt và dễ hấp hấp thu. Trong thực tế, nên ăn cả thức ăn động vật và thực vật, khi ăn nên có thêm chanh (có chứa vi tamin C). Khi muốn bổ sung thuốc chứa chất sắt, tốt nhất nên dùng loại viên sắt phối hợp với acid folic (vì acid folic cũng rát cần cho sự phát triển của trẻ trong giai đoạn này). Mỗi tuần, uống 01 viên sắt chứa 60 mg sắt nguyên tố. Mỗi năm dùng trong 16 tuần, rồi nghỉ, đến năm sau sẽ uống tiếp. Néu có điều kiện nên dùng viên hổn hợp nhièu vitamin có chứa sắt và các yếu tố vi lượng khác.

Nếu trẻ bị bệnh gây thiéu sắt, cần phải chữa các bệnh đó. Ví dụ: trẻ mắc giun cần phải tẩy giun. Dùng thuốc tẩy các loại giu phổ biến mà trẻ hay mắc (như menbendazol). Do bị giun là phổ biến lại hay tái nhiễm, nê 6 tháng cần tẩy một lần. Chữa rong kinh, rong huyết (bệnh ở loại trung bình, nặng mới cần chữa như nói trên). Chữa các bệnh trên không khó và cũng không quá tốn kém.

DSCKII.Bùi Văn Uy

(DSCKII. Bùi Văn Uy)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét